Điện cực than chì lướt trên gió

“Phân bổ điện năng” đã trở thành chủ đề nóng tại Trung Quốc kể từ tháng 9. Lý do của “phân bổ điện năng” là thúc đẩy mục tiêu “trung hòa carbon” và kiểm soát mức tiêu thụ năng lượng. Ngoài ra, kể từ đầu năm nay, có nhiều tin tức về giá nguyên liệu hóa học liên tiếp xuất hiện, trong đó có điện cực than chì, một vật liệu rất quan trọng trong ngành thép, năm nay ít được thị trường quan tâm, và ngành thép và trung hòa carbon.

Dây chuyền công nghiệp: chủ yếu dùng trong sản xuất thép

Điện cực than chì là một loại vật liệu dẫn điện than chì chịu nhiệt độ cao, điện cực than chì có thể dẫn dòng điện và phát điện, để nấu chảy sắt thải trong lò cao hoặc các nguyên liệu thô khác để sản xuất thép và các sản phẩm kim loại khác, chủ yếu được sử dụng trong sản xuất thép. Điện cực than chì là một loại vật liệu có điện trở suất thấp và khả năng chống lại gradien nhiệt trong lò hồ quang điện. Đặc điểm chính của sản xuất điện cực than chì là chu kỳ sản xuất dài (thường kéo dài từ ba đến năm tháng), tiêu thụ điện năng cao và quy trình sản xuất phức tạp.

Tình hình chuỗi công nghiệp điện cực than chì:

Chuỗi công nghiệp điện cực than chì nguyên liệu thô thượng nguồn chủ yếu là than cốc dầu mỏ, than cốc kim, tỷ lệ nguyên liệu thô chiếm chi phí sản xuất điện cực than chì lớn hơn, chiếm hơn 65%, do công nghệ sản xuất than cốc kim của Trung Quốc và công nghệ so với Nhật Bản và các nước khác vẫn còn khoảng cách lớn, chất lượng than cốc kim trong nước khó đảm bảo, do đó sự phụ thuộc nhập khẩu của Trung Quốc vào than cốc kim chất lượng cao vẫn còn cao, Năm 2018, tổng nguồn cung than cốc kim tại Trung Quốc là 418.000 tấn, trong đó 218.000 tấn được nhập khẩu, chiếm hơn 50%. Ứng dụng hạ nguồn chính của điện cực than chì là trong sản xuất thép eAF.

Điện cực than chì chủ yếu được sử dụng trong luyện gang thép. Sự phát triển của ngành điện cực than chì ở Trung Quốc về cơ bản phù hợp với quá trình hiện đại hóa ngành sắt thép của Trung Quốc. Điện cực than chì của Trung Quốc bắt đầu vào những năm 1950. Warburg Securities đã chia quá trình phát triển của điện cực than chì ở Trung Quốc thành ba giai đoạn:

1. Bắt đầu phát triển vào năm 1995 — sản xuất hàng loạt vào năm 2011;

2. Sự phân hóa doanh nghiệp tăng cường vào năm 2013 — nền kinh tế cải thiện đáng kể vào năm 2017;

3. Năm 2018 đang đi xuống — cuộc chiến giá cả sẽ nổ ra vào năm 2019.

Cung cầu: nhu cầu thép lò điện chiếm phần lớn

Về sản lượng và tiêu thụ, theo phân tích của Frost Sullivan, sản lượng điện cực than chì của Trung Quốc đã giảm từ 0,53 triệu tấn năm 2015 xuống còn 0,50 triệu tấn năm 2016, cho thấy xu hướng giảm. Năm 2020, đại dịch đã tác động tiêu cực đến hoạt động của các nhà sản xuất do hạn chế quản lý về giờ hoạt động, gián đoạn lực lượng lao động và thay đổi quy trình hoạt động.
Kết quả là, sản lượng điện cực than chì của Trung Quốc đã giảm mạnh. Dự kiến ​​sản lượng sẽ đạt 1.142,6 kiloton vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAG) khoảng 9,7% từ năm 2020 đến năm 2025, khi hoạt động được nối lại và chính sách hỗ trợ của ban quản lý đối với sự phát triển của thép eAF.
Vậy là sản lượng, sau đó là tiêu thụ. Tiêu thụ điện cực than chì ở Trung Quốc bắt đầu tăng từ năm 2016, đạt 0,59 triệu tấn vào năm 2020, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAG) là 10,3% từ năm 2015 đến năm 2020. Tiêu thụ điện cực than chì dự kiến ​​sẽ đạt 0,94 triệu tấn vào năm 2025. Dưới đây là dự báo chi tiết của cơ quan này về sản lượng và tiêu thụ điện cực than chì.

Sản lượng điện cực graphite phù hợp với sản lượng thép EAF. Sự tăng trưởng sản lượng thép EAF sẽ thúc đẩy nhu cầu điện cực graphite trong tương lai. Theo Hiệp hội Sắt thép Thế giới và Hiệp hội Công nghiệp Carbon Trung Quốc, Trung Quốc đã sản xuất 127,4 triệu tấn thép EAF và 742.100 tấn điện cực graphite vào năm 2019. Sản lượng và tốc độ tăng trưởng của điện cực graphite tại Trung Quốc có liên quan chặt chẽ đến sản lượng và tốc độ tăng trưởng của thép eAF tại Trung Quốc.

Trong năm 2019 và 2020, tổng nhu cầu toàn cầu về thép eAF và thép không phải EAF lần lượt là 1.376.800 tấn và 1.472.300 tấn. Warburg Securities dự báo tổng nhu cầu toàn cầu sẽ tăng thêm trong năm năm tới và đạt khoảng 2.104.400 tấn vào năm 2025. Nhu cầu về thép lò điện chiếm phần lớn, ước tính đạt 1.809.500 tấn vào năm 2025.

So với sản xuất thép lò cao, sản xuất thép lò điện có lợi thế rõ ràng về lượng khí thải carbon. So với sản xuất thép quặng sắt, sản xuất thép với 1 tấn thép phế liệu có thể giảm 1,6 tấn khí thải carbon dioxide và 3 tấn khí thải chất thải rắn. Nghiên cứu môi giới cho thấy tỷ lệ phát thải carbon của lò điện và thép lò cao trên một tấn là 0,5:1,9. Các nhà nghiên cứu môi giới cho biết, "sự phát triển của thép lò điện phải là xu hướng chung".

Vào tháng 5, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin đã ban hành Thông báo về các biện pháp thực hiện thay thế công suất trong ngành sắt thép, chính thức được thực hiện vào ngày 1 tháng 6. Các biện pháp thực hiện thay thế công suất sẽ làm tăng đáng kể tỷ lệ thay thế thép và mở rộng các lĩnh vực trọng điểm để phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm không khí. Các tổ chức tin rằng phương pháp thay thế công suất mới sẽ tiếp tục giảm công suất thép, củng cố ngành thép để giải quyết tình trạng công suất dư thừa. Đồng thời, việc thực hiện phương pháp thay thế đã sửa đổi sẽ đẩy nhanh sự phát triển của eAF và tỷ lệ thép eAF sẽ tăng đều đặn.

Điện cực than chì là vật liệu chính của lò điện, được kích thích bởi nhu cầu của lò điện, nhu cầu của nó dự kiến ​​sẽ tiếp tục tăng, điện cực than chì bị ảnh hưởng bởi giá của nó.

Biến động giá lớn: đặc điểm theo chu kỳ

Từ năm 2014 đến năm 2016, thị trường điện cực than chì toàn cầu suy giảm do nhu cầu hạ nguồn yếu hơn và giá điện cực than chì vẫn ở mức thấp. Năm 2016, với các nhà sản xuất điện cực than chì cho công suất dây chuyền giảm xuống dưới giá thành sản xuất, hàng tồn kho xã hội xuống mức thấp, chính sách năm 2017 kết thúc hủy bỏ lò tần số trung gian DeTiaoGang, một lượng lớn sắt phế liệu vào lò thép, ngành công nghiệp điện cực than chì tại Trung Quốc trong nửa cuối năm 2017 nhu cầu tăng đột biến, do nhu cầu về điện cực than chì kim cốc trên giá nguyên liệu tăng mạnh vào năm 2017, Năm 2019, đạt 3.769,9 đô la một tấn, tăng 5,7 lần so với năm 2016.


Thời gian đăng: 15-10-2021